Bài viết

Thử suy nghĩ một chút về cái đẹp hay ĐẸP

Có bao giờ bạn thốt lên rằng ” ôi  khung cảnh đẹp quá “, ” ôi cô gái đẹp quá “, ” cái áo này đẹp quá “,  ” ôi người đó có nghĩa cử cao đẹp quá “, ” Thằng bạn chơi đẹp với mình quá  “, bla bla …
Và rồi bạn sẽ thốt lên những điều trái ngược, cái đó  xấu quá, con đó xấu quá bla. .
Vậy cái cảm nhận xấu, đẹp đó của bạn gần như xuất hiện tức thì khi bạn đối mặt với sự vật sự việc hiện tượng nào đó. Nhưng liệu rằng bạn có bao giờ nói được rằng vì sao khung cảnh đó đẹp ? vì sao cô gái đó đẹp ? vì sao cái áo đó đẹp ? Phải chăng là chỉ vì thích, chỉ vì tôi muốn thốt lên như vậy, nhưng rồi tại một thời điểm khác, cũng khung cảnh tương tự, con người tương tự và bạn lại thấy điều gì đó không đẹp nữa ?
Vậy đẹp là gì ?
Vì sao lại đẹp, xấu ?
Có cái gì đó đẹp hơn cái gì đó không ?
Chúng ta có nên hướng đến cái đẹp và làm sao để hướng đến cái đẹp trong cuộc sống này ?


Điều đầu tiên tôi thường làm nhất khi đối mặt với từ ngữ nào mà mình mông lung, mà thực ra thì cũng có không ít những từ ngữ tiếng Việt khiến tôi mông lung đó là tra từ điển, và đây là kết quả.
Đẹp nghĩa là : 
– Có hình thức hoặc phẩm chất đem lại sự hứng thú đặc biệt, làm cho người ta thích nhìn ngắm hoặc kính nể .

>chiếc áo đẹp 
> phong cảnh đẹp 
> một ngày đẹp trời 
> đẹp người đẹp nết 
– Có sự hài hoà, tương xứng .
> đẹp đôi 
> “Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi, Trương.” (TKiều)

– Có cảm giác thích thú .

> đẹp lòng 
> đẹp ý

Trong tiếng Anh : từ Đẹp theo tôi sát nghĩa nhất là từ  beautyful is means : 
1. pleasing to the senses: very pleasing and impressive to listen to, touch, or especially to look at

2. excellent: very good or enjoyable

Theo wiki :
– Cái đẹp là một phạm trù mỹ học, trong đó phản ánh và đánh giá những hiện tượng của hiện thực và những tác phẩm nghệ thuật đem lại cho con người một cảm giác khoái lạc về mặt thẩm mỹ, biểu hiện dưới hình thức cảm tính, đồng thời xác định giá trị thẩm mỹ của đối tượng theo quan điểm về sự hoàn thiện, xem chúng là các hiện tượng có giá trị thẩm mỹ cao nhất.
– Trong thực tế lịch sử mỹ học nói riêng và triết học nói chung, quan niệm về cái đẹp không thống nhất.

  1. Phái hoài nghi thời cổ Hy-La bác bỏ sự tồn tại của cái đẹp trong thực tại. Theo Hume, cái đẹp không phải là phẩm chất vốn có trong sự vật, nó chỉ có trong tinh thần và chỉ tinh thần mới chiêm nghiệm được nó, tinh thần mỗi người mỗi khác nên cảm nhận về cái đẹp của cùng một thực tại cũng không giống nhau. 
  2. Platon, đại biểu của triết học duy tâm, cho rằng cái đẹp là một ý niệm vĩnh cửu, tuyệt đối, thần thánh. 
  3. Thomas Aquinas xem cái đẹp nguyên khởi từ Thượng đế. 
  4. Hegel cho rằng cái đẹp là hình thể cảm tính của các ý niệm. 
  5. Trong khi đó, thuyết trực cảm cho rằng cái đẹp được tạo ra do việc phóng chiếu tình cảm con người lên đối tượng .
Mỹ học duy vật thể hiện các xu hướng nhìn nhận cái đẹp:
– Xu hướng xem cái đẹp như một phẩm chất của bản thân vật thể (với đại diện Burke) hoặc như sự biểu lộ tính quy luật của tự nhiên (Hogarth).
– Bên cạnh đó là xu hướng muốn kết hợp việc thừa nhận tính khách quan của cái đẹp với ý nghĩa của nó đối với con người.
  1.  Tchernyshevski cho rằng cái đẹp là sự sống, một tồn tại là đẹp khi ở nó ta nhìn thấy cuộc sống như nó phải có theo cách hiểu của ta. 
  1. Các đại biểu của mỹ học theo chủ thuyết Marx nêu lên sự liên hệ có tính quy luật giữa cái đẹp với các lao động của con người. Trong khi đối sánh sự tự khẳng định bản chất nhân loại-xã hội của con người trong thực tiễn sáng tạo thế giới vật chất với những hoạt động có tính bản năng của loài vật, Karl Marx nêu định đề nổi tiếng “con người cũng sáng tạo theo quy luật của cái đẹp”. Theo đó, cái đẹp là khách quan bởi vì nó là giá trị nhân bản-xã hội, được tạo ra trong sự tương tác của tự nhiên và xã hội, trong quan hệ với nhau của con người trong tiến trình lịch sử xã hội. Tuy vậy, sự đánh giá cái đẹp, bộc lộ qua tình cảm thẩm mỹ, lại mang tính chủ quan và có thể chân thực hay giả dối tùy theo chỗ tương ứng hay không với cái đẹp như là giá trị khách quan. Mỹ học theo chủ thuyết Marx, ngoài ra, cũng nhấn mạnh đặc biệt mối liên hệ biện chứng giữa cái đẹp và cái có ích, cái đẹp và chân lý.

Đặc trưng : 
– Một hiện tượng có thể được xem là đẹp khi, với tính toàn vẹn cụ thể cảm tính của người tiếp nhận, chúng hiện diện như những giá trị xã hội-nhân bản, tức những giá trị thể hiện sự khẳng định con người trong thế giới, chứng tỏ sự mở rộng giới hạn tự do của xã hội và con người, thúc đẩy sự phát triển hài hòa về nhân cách, sự nảy sinh và bộc lộ ngày càng đầy đủ những sức mạnh về năng lực của con người.

– Trong mỹ học và lịch sử nghệ thuật, cái đẹp và sự tiếp nhận cái đẹp được nghiên cứu ở bình diện quan hệ giữa vật chất và tinh thần, khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, hình thức và nội dung. Đặc trưng của cái đẹp được xác định thông qua mối quan hệ của nó với các loại hình giá trị khác: giá trị thực dụng (lợi ích), giá trị nhận thức (chân lý), giá trị đạo đức (chân, thiện). Mỹ học duy tâm giải thích tác động của cái đẹp đến con người bằng quan niệm cho rằng ở cái đẹp bộc lộ những sức mạnh tâm linh siêu nhiên, trong khi đó mỹ học duy vật tìm ngọn nguồn của tiếp nhận và trải nghiệm cái đẹp ở thực tại vật chất[3].

Cái đẹp về con người : 
– Cái đẹp được xếp vô hai loại cái đẹp bên trong(nghĩa là tính tốt) với vẻ đẹp bên ngoài nhưng thường thì vẻ đẹp bên ngoài được coi trọng hơn và có sức hấp dẫn người khác. Sắc đẹp thường miêu tả về một phụ nữ, và làm ảnh hưởng tới các vấn đề tình dục. Hiện nay, đẹp còn được miêu tả như cả về tính nết và một số thứ khác. Cuộc thi hoa hậu là một trong những cuộc thi đánh giá sắc đẹp của toàn thế giới.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *